Ẩn / Hiện Quảng Cáo

Nhạc tụng Bát nhã tâm kinh tiếng Phạn

Thảo luận trong 'ĐIỆN TỬ - ĐIỆN LẠNH - ĐIỆN GIA DỤNG.' bắt đầu bởi gyuntanron, 27/11/23.

  1. Người gửi:

    gyuntanron (Offline)
  2. Địa phương:

    Sửa bài viết để cập nhật
  3. Tình trạng sản phẩm:

    Sửa bài viết để cập nhật
  4. Giá mong muốn:

    (VNĐ)
  5. Hình thức giao dịch:

    Sửa bài viết để cập nhật
  6. Điện thoại:

    0908101244 Click để xem
  7. Zalo:

  8. Địa chỉ:

    161b nguyễn văn thủ quận 1, hcm (Click để xem bản đồ)
  9. Thông tin chủ đề:

    Gửi 27/11/23, 0 Trả lời, 1,289 Đọc
  1. 27/11/23 lúc 13:19

    gyuntanron

    Major Poster

    gyuntanron
    Tham gia:
    4/1/14
    Bài viết:
    103
    Được thích:
    23


    Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (phiên latinh từ Phạn ngữ: Maha Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra, Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn.

    Kinh này được hầu hết các Phật tử tại Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, Tây Tạng, và Trung Quốc biết đến và rất thường dùng trong việc đọc tụng. Cụm từ “thuyền bát nhã” như chỉ một phương tiện cho người học Phật nhanh chóng quay về bờ giác, chạm vào những chân lý nhiệm màu của Phật pháp. Vì vậy, Bát Nhã Tâm Kinh thần chú là một mật chú quan trọng của người tu học theo Đức Phật. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật khuyên rằng: “Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng chú, hay trừ được hết thảy khổ, chơn thật, không dối”. Tất cả chư Phật nhờ nương theo Bát Nhã Ba La Mật mà đạt quả Phật, vì vậy chú này đã được nhân cách hóa và được tôn vinh là Mẹ của tất cả chư Phật. Thần chú Bát Nhã Tâm Kinh có năng lực và diệu dụng rất lớn trong quá trình tu hành đến giác ngộ viên mãn của Phật tử. Cũng là câu chú không thể thiếu trong các nghi thức thực hành Phật giáo. Đức Phật muốn cho các Phật tử hiểu được con đường tu hành đi đến giải thoát, giác ngộ phải vượt qua nhiều chướng ngại, nên trì chú Bát Nhã giúp họ vững tâm tu vượt qua khó khăn, qua bờ giác ngộ. Ngoài ra, thần chú Bát Nhã mở lối cho ta sám hối những ác nghiệp trước kia và mới có đủ duyên để hồi hướng về chư Thiện Thánh hiền, Già lam Hộ pháp, Long thiên và cho mọi chúng sinh trong tất cả các cõi.

    BÁT NHÃ TÂM KINH
    Quán tự tại bồ tát hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị. Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, bồ đề tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố vô hữu khủng bố; viễn ly điên đảo mộng tưởng; cứu cánh niết bàn, tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa cố đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Cố tri Bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư. Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát bà ha.

    Bát nhã Tâm kinh là : Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế, Yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề Tát bà ha. Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú nghĩa là cho nên nói chú Bát Nhã Ba la mật đa, điều ấy cho ta hiểu rằng phép quán chiếu Bát nhã có công đức sánh ngang với công đức của chú đà la ni, tất nhiên tác dụng vi diệu của phép tu này cũng không thể nghĩ bàn được, Cho nên, cần thực hành lời chú Bát nhã Ba la mật đa. Tức thuyết chú viết, nghĩa đen là liền nói chú rằng.

    Nhưng để diễn đạt cái tác dụng linh ứng không thể nghĩ bàn ấy, tưởng nên dịch câu ấy là: chú liền ứng rằng thì mới lộ hết ý sâu xa tàng ẩn trong đoạn này, có hô thì lập tức có ứng. Và có như thế mới gọi là linh, là huyền diệu. Chú vốn là mật ngữ (lời bí mật). Ðã là bí mật, làm sao cắt nghĩa? Tuy nhiên, dựa vào sự cấu tạo, có thể suy đoán một cách thô sơ nghĩa của một số chữ. Chẳng hạn như với câu chú này, nghĩa của nó không đến nỗi khó khăn lắm.

    Yết đế, tiếng Hán dịch nghĩa là độ, chữ Phạn vốn đọc là gate, có nghĩa là đi qua, vượt qua. Yết đế lặp lại hai lần có nghĩa là độ cho mình và độ cho người. Ba la yết đế, do chữ pàragate, có nghĩa là đi qua bờ bên kia. Ba la tăng yết đế, là do phiên âm chữ pàrasamgate, nghĩa là đi qua bờ bên kia hoàn toàn. Bồ đề là giác ngộ. Tát bà ha do phiên âm chữ svàha có nghĩa là Ngài khéo nói. Toàn bộ câu đó tiếng Phạm đọc như sau Gate Gate Pàragate Pàrasamgate Bodhi Svaha. Như vậy, ý nghĩa của toàn câu chú có thể tạm dịch như sau : Hãy vượt qua, vượt qua đi, qua bờ bên kia đi, qua bờ bên kia hoàn toàn thì sẽ đạt đến giác ngộ. Ngài khéo nói như vậy. Tạm dịch nghĩa đen của bài chú như trên, nhưng công hiệu của chú hoàn toàn không phải ở nghĩa hay lý. Vì thế, hiểu nghĩa hay lý đối với chú không ích lợi gì cả. Ðiều cốt yếu khi tụng chú, là phải thành tâm. Càng thành tâm thì càng nhiều linh nghiệm, bởi vì công dụng hàng đầu của việc trì chú là diệt niệm. Vọng niệm có diệt được thì thân tâm mới khinh an. Do đó, mới có cảm ứng linh nghiệm bất khả tư nghị. Riêng về chú Bát nhã trên đây, diệu dụng cứu cánh là đưa ta mau lên bờ giác.
     

Chia sẻ trang này