Ẩn / Hiện Quảng Cáo

Bán Lịch sử của kính hiển vi quang học

Thảo luận trong 'ĐIỆN TỬ - ĐIỆN LẠNH - ĐIỆN GIA DỤNG.' bắt đầu bởi linhkienvq, 26/4/24.

  1. Người gửi:

    linhkienvq (Offline)
  2. Địa phương:

    Toàn Quốc
  3. Tình trạng sản phẩm:

    Mới (100%)
  4. Giá mong muốn:

    3 triệu (VNĐ)
  5. Hình thức giao dịch:

    Trực Tiếp
  6. Điện thoại:

    0908101011 Click để xem
  7. Zalo:

    Chưa có
  8. Địa chỉ:

    2a nguyễn bá tòng (Click để xem bản đồ)
  9. Thông tin chủ đề:

    Gửi 26/4/24, 0 Trả lời, 644 Đọc
  1. 26/4/24 lúc 11:37

    linhkienvq

    Junior Member

    linhkienvq
    Tham gia:
    29/3/24
    Bài viết:
    33
    Được thích:
    0
    khái niệm cường điệu đã được biết đến từ lâu. Khoảng năm 1267, triết gia người Anh Roger Bacon đã viết trong Perspectiva, “[chúng mình] có thể đánh số các hạt bụi và cát nhỏ nhất dựa trên góc độ lớn mà chúng mình có thể nhìn thấy chúng,” và vào năm 1538, thầy thuốc người Ý Girolamo Fracastoro đã viết trong Homocentrica, “Nếu ai đấy nhìn qua hai chiếc kính đeo mắt, cái này chồng lên cái kia, người đó sẽ nhìn thấy mọi thứ to hơn nhiều.”
    [​IMG]
    những bức vẽ của Robert Hooke
    các bức vẽ của Robert Hooke về cấu trúc tế bào của nút chai và 1 nhánh cây mẫn cảm từ Micrographia (1665).(thêm)

    bức vẽ một con muỗi cái của Robert Hooke
    Bức vẽ 1 con muỗi cái của Robert Hooke, từ Micrographia (1665).(thêm)
    ba nhà chế tạo kính mắt người Hà Lan—Hans Jansen, con trai ông là Zacharias Jansen, và Hans Lippershey—đã nhận được công lao vì đã phát minh ra kính hiển vi phức hợp vào khoảng năm 1590. Hình vẽ trước tiên về kính hiển vi được vẽ vào khoảng năm 1631 ở Hà Lan. Nó rõ ràng là 1 chiếc kính hiển vi phức hợp, có thị kính và vật kính. Loại nhạc cụ này, được làm bằng gỗ và bìa cứng, thường được trang trí bằng da cá đánh bóng, ngày càng trở nên phổ biến vào giữa thế kỷ 17 và được nhà triết học tự dưng người Anh Robert Hooke sử dụng để trình diễn thường xuyên cho Hiệp hội tôn thất mới. . các cuộc biểu tình này bắt đầu vào năm 1663, và hai năm sau, Hooke xuất bản một tập folio có tựa đề Micrographia, giới thiệu 1 loạt các góc nhìn vi mô về các vật thể quen thuộc (bọ chét, chấy và cây tầm ma trong số đó). Trong cuốn sách này, ông đã đặt ra thuật ngữ tế bào.

    kính hiển vi của Antonie van Leeuwenhoek
    Kính hiển vi điện tử do Antonie van Leeuwenhoek sản xuất.
    Ẩn trong những trang ko đánh số trong lời nói đầu của Micrographia là phần diễn đạt cách sản xuất 1 thấu kính công suất cao độc nhất thành 1 cái kính hiển vi có thể sử dụng được, và chính nhờ sử dụng bề ngoài này mà công chức người Hà Lan Antonie van Leeuwenhoek đã bắt đầu những quan sát tiền phong của mình về những vi sinh vật nước ngọt trong những năm 1670. Ông đã tự tay phân phối các cái kính hiển vi có kích tấc bằng con tem bưu chính và cái kính hiển vi tốt nhất trong số đấy có thể phân giải những chi tiết khoảng 0,7 μm. những mẫu vật đẹp đẽ của ông được phát hiện trong tình trạng xuất sắc tại Hiệp hội hoàng thất hơn ba thế kỷ sau đã chứng tỏ ông là 1 khoa học viên vĩ đại. Sử dụng kính hiển vi đơn giản của mình, Leeuwenhoek đã đưa ra phương pháp vi sinh vật học một cách hiệu quả vào năm 1674 giúp giá kính hiển vi 1 thấu kính giảm vẫn được sử dụng rộng rãi cho đến các năm 1850. Năm 1827, chúng được nhà thực vật học người Scotland Robert Brown sử dụng để chứng minh sự có mặt khắp nơi của nhân tế bào, một thuật ngữ mà ông đặt ra vào năm 1831.
    [​IMG]
    kính hiển vi phức hợp thế kỷ 17
    1 kính hiển vi phức hợp thế kỷ 17.
    Kính hiển vi đơn giản sử dụng thấu kính đơn có thể tạo ra hình ảnh đẹp; ngoài ra, chúng cũng có thể tạo ra những màu kém chất lượng do quang sai màu, trong đó các bước sóng ánh sáng khác nhau ko đến cùng một tiêu điểm. Quang sai còn tệ hơn ở các kính hiển vi phức hợp vào thời đấy, vì các thấu kính đã phóng đại quang sai chí ít bằng mức chúng phóng đại hình ảnh. dù rằng để mua kính hiển vi phức hợp là các đồ vật đẹp đẽ đem lại địa vị cho chủ nhân nhưng chúng lại tạo ra những hình ảnh nhái. Năm 1733, nhà quang học nghiệp dư người Anh Chester Moor Hall đã tìm ra bằng cách thử và sai rằng sự kết hợp giữa 1 thấu kính thủy tinh hình vương miện lồi và một thấu kính thủy tinh lửa lõm có thể giúp điều chỉnh quang sai màu trong kính thiên văn, và vào năm 1774, Benjamin Martin ở London đã sản xuất ra 1 kính thiên văn. bộ thấu kính hiệu chỉnh màu tiền phong dành cho kính hiển vi.
    Sự xuất hiện của các loại kính quang học mới đã khuyến khích sự tăng trưởng liên tục của kính hiển vi trong thế kỷ 19, và các cải tiến đáng kể đã được thực hành trong việc tìm hiểu quang học hình học của sự hình thành ảnh. khái niệm vật kính hiển vi tiêu sắc (ko biến dạng màu) chung cục đã được giới thiệu vào năm 1791 bởi nhà quang học người Hà Lan Francois Beeldsnijder, và nhà kỹ thuật người Anh Joseph Jackson Lister vào năm 1830 đã xuất bản 1 công trình biểu thị cách tiếp cận lý thuyết để bề ngoài hoàn chỉnh các vật kính hiển vi. Vật lý của cấu tạo thấu kính đã được nhà vật lý người Đức Ernst Abbe nghiên cứu. Năm 1868, ông phát minh ra hệ thống thấu kính tiêu dung nhan, hệ thống này thậm chí còn có khả năng hiệu chỉnh màu dung nhan tốt hơn thấu kính tiêu sắc đẹp, và vào năm 1873, thổ địa cha một phân tách toàn diện về lý thuyết thấu kính. Kính hiển vi ánh sáng được cung ứng vào cuối thế kỷ 19 đã đạt đến dừng hiệu quả của kính hiển vi quang học. các thiết bị sau này, chẳng hạn như kính hiển vi tương phản pha, kính hiển vi giao trâm và kính hiển vi đồng tiêu, đã giải quyết những vấn đề cụ thể nảy sinh trong quá trình nghiên cứu các mẫu vật như tế bào sống.
     

Chia sẻ trang này